Tên quẻ: Tụy

Hán Việt: Tụy 萃, Phiên âm: Cuì (Tụy)

Lời Kinh

Văn ngôn:

萃:亨,王假有廟,利見大人,亨,利貞,用大牲吉,利有攸往。

Dịch âm. – Tụy: Hanh, vương cách hữu miếu, lợi kiến đại nhân, hanh, lợi trinh, dụng đại sinh cát, lợi hữu du vãng.

Dịch nghĩa. – Tụy: Hanh thông; vua đến dự lễ ở tông miếu; gặp bậc đại nhân thì tốt; giữ đạo thì hanh thông; dùng lễ vật lớn thì cát; có lợi khi tiến hành việc gì.

Quẻ đơn trên: Đoài, Quẻ đơn dưới: Khôn

Ý nghĩa quẻ Tụy

Quẻ Tụy là quẻ của thời đại đoàn kết, quy tụ nhân tâm.

Nhưng muốn tụ lại bền vững, thì phải có:

Nếu dùng quyền để tụ, sự kết nối sẽ mong manh. Nếu dùng đức để tụ, sẽ bền lâu.

Tụ không chỉ là đông người, mà là hội tụ đúng đạo, đồng lòng, đồng chí hướng.

Lời bàn của Tiên Nho

Tiên Nho cho rằng: Tụy là thời cơ rất tốt để củng cố lòng người, tập hợp lực lượng.

Nhưng người đứng đầu phải có đức, có lễ, nếu không thì càng tụ càng loạn.

Dân chúng như nước, cần đạo lý dẫn dắt để không tràn lan, cũng như đầm nước cần bờ đắp để tụ lại.

Tụy chính là lấy đức để thu phục, lấy lễ để duy trì, lấy chí hướng lớn để gắn kết lòng người.

Bài học từ quẻ

Quẻ Tụy dạy rằng: Muốn hội tụ nhân tâm, phải dùng đức – không thể dùng mưu hoặc quyền lực.

Đoàn kết không chỉ là quy tụ đông người, mà là kết tụ đúng thời, đúng đạo, đúng người.

Để giữ cho sự tụ họp được bền lâu, người lãnh đạo phải giữ chính đạo, tôn lễ nghi, dùng người hiền.

Lời kết

Tụy là quẻ của sự hanh thông nhờ đoàn kết đúng cách.

Trong đời sống hay quản trị, muốn tập hợp lực lượng vững bền, phải bắt đầu từ đạo đức, sự tín nhiệm và lòng thành.

Tụ đúng người – thành nghiệp lớn.

Tụ sai người – tan như mây khói.

Truyện của Trình Di. - Ông vua có đạo tụ họp thiên hạ đến chưng có miếu là tột bậc rồi. Các loài là thứ rất nhiều, mà có thể thống nhất sự quy ngưỡng của chúng, lòng người là thứ không biết nơi đâu là nơi chốn, mà có thể cho họ phải thành kính, quỷ thần là đấng không thể lường biết, mà có làm cho các ngài lại đến, cái đạo tụ họp lòng người, tóm thu chí dân, không phải chỉ có một đường, nhưng trong đó, không gì lớn bằng tôn miếu, cho nên đạo họp thiên hạ của kẻ làm vua, đến chưng có miếu thì tột bậc của sự họp. Việc báo đáp trong cuộc tế tự vốn ở lòng người mà ra, đấng thánh nhân đặt ra lễ nghi để làm cho nên đức ấy, cho nên con chồn, con gái, cũng đều biết tế, tính nó như vậy. Quẻ Tụy có chữ 亨 (hanh), tức là lời khen ngợi, chữ 亨 (hanh) phải ăn xuống dưới, khác với quẻ Hoán. Quẻ Hoán trước nói tài quẻ, quẻ Tụy trước nói nghĩa Quẻ, ý đó coi ở lời Thoán rất rõ.

Bản nghĩa của Chu Hy. - Tụy nghĩa là hợp, Khôn thuận mà Đoái đẹp lòng, hào Chín Năm cứng giữa mà hào Hai ứng nhau với nó, lại là cái Tượng chằm lên trên đất, muôn vật tụ họp, cho nên là Tụy. Chữ 亨 (hanh) là chữ thửa. “Vua đến có miếu” nghĩa là kẻ làm vua có thể đến trong tôn miếu, tức là là lời Chiêm tốt lành về việc bói tế vậy. Thiên Tế nghĩa (ở Kinh Lễ) nói “Ông đến chưng nhà thái miếu” cũng là nghĩa thế. Miếu là chỗ để họp tinh thần của ông cha, lại, người ta ắt phải họp tinh thần của mình thì mới có thể đến miếu mà vâng ông cha. Người đã họp lại, thì ắt thấy bậc người lớn mà sau có thể được hanh, nhưng lại ắt phải lợi về chính đạo mới được, họp nhau không bằng chính đạo thì không thể hanh. Con sinh lớn ắt phải dùng đến rồi sau mới có sự họp, thì có thể thửa đi. Đều là lời Chiêm tốt lành mà phải có sự răn sợ

Xem chi tiết nội dung của từng hào

Hào thứ 1 Hào thứ 2 Hào thứ 3 Hào thứ 4 Hào thứ 5 Hào thứ 6

🎁 Tặng ngay gói 50.000 đồng – 10 lần gieo quẻ miễn phí! Nhập email để nhận ngay.