Các nguồn này tập trung vào Kinh Tâm Từ (Metta Sutta), một bài kinh quan trọng trong Phật giáo Nguyên Thủy (Theravāda) do Đức Phật Gotama thuyết giảng. Bài kinh này không chỉ là một lời cầu nguyện bảo hộ mà còn là một đề mục thiền định và một nền tảng cho pháp hành tuệ. Các nguồn giải thích ý nghĩa của Tâm Từ, những phẩm chất cần thiết để phát triển Tâm Từ, phương pháp thực hành rải Tâm Từ, những lợi ích của Tâm Từ, và mối liên hệ giữa Tâm Từ với thiền định (Samatha) và thiền tuệ (Vipassanā) để đạt được giải thoát.
Các Chủ Đề và Ý Tưởng Chính:
Định Nghĩa và Bản Chất của Tâm Từ (Metta):
Tâm Từ không phải là tình yêu xác thịt hay luyến ái cá nhân phát sinh từ tâm tham. Đó là một "tình thương cao thượng, tình thương cả mình lẫn tất cả chúng sinh; cầu mong sự lợi ích, sự tiến hoá, sự an lạc lâu dài cho mình và mọi chúng sinh đồng nhau cả thảy." (Tk Hộ Pháp)
Tâm Từ được định nghĩa là "tâm sở vô sân (adosacetasika) đồng sanh trong đại thiện tâm có đối tượng là tất cả chúng sinh." (Tk Hộ Pháp) Nó khác với "tâm từ giả" (tình thương phát sinh từ tâm tham) bởi bản chất và đối tượng của nó.
Tâm Từ là một trong Tứ Vô Lượng Tâm (Brahmavihāra - Từ, Bi, Hỷ, Xả), được xem là cách sống cao thượng của các bậc Phạm thiên.
Nguyên Nhân Thuyết Giảng Kinh Tâm Từ:
Bài kinh được Đức Phật thuyết giảng cho một nhóm Tỳ khưu gặp khó khăn khi an cư kiết hạ trong rừng do bị chư thiên quấy nhiễu. Sau khi học và thực hành rải Tâm Từ, chư Tỳ khưu đã được chư thiên hộ trì và đều chứng đắc Thánh Quả A-ra-hán trong mùa an cư đó.
"Ðó là nguyên nhân mà Ðức Thế Tôn thuyết giảng bài kinh Mettāsutta: kinh Tâm Từ này." (Tk Hộ Pháp)
Các Phẩm Chất Cần Có Để Thực Hành Tâm Từ:
Bài kinh Metta Sutta phần đầu mô tả 15 phẩm chất mà người hành giả cần trau dồi trước khi thực hành rải Tâm Từ. Những phẩm chất này bao gồm:
Có khả năng (Sakko): có đức tin, chân thật, sức khỏe, tinh tấn, trí tuệ.
Ngay thẳng (Uju) và rất ngay thẳng (Suhuju): thân, khẩu, ý chân thật, không gian dối.
Dễ dạy (Suvaco).
Nhu mì, hiền lành (Mudu).
Không ngã mạn (Anatimāni).
Biết tri túc (Santussako): hài lòng với những gì mình có, không phân biệt tốt xấu.
Dễ nuôi (Subharo).
Ít công việc (Appakicco).
Đời sống nhẹ nhàng (Sallahuvutti).
Biết thu thúc lục căn thanh tịnh (Santindriyo).
Có trí tuệ thông minh sáng suốt (Nipako): hiểu biết rõ sự lợi ích Niết Bàn.
Thân, khẩu, ý được trau dồi thuần đức (Appagabbho).
Không quyến luyến gia đình (Kulesu ananugiddho).
Không làm điều ác nhỏ bị bậc thiện trí chê trách (Yena viññū pare upavadeyyuṃ, na ca khuddamācare kiñci).
"Nếu hành giả thực hành không đầy đủ 15 pháp hành này trước, thì sự tiến hành đề mục niệm rải tâm từ không đạt được hiệu quả tốt trong pháp hành thiền định." (Tk Hộ Pháp)
Phương Pháp Thực Hành Rải Tâm Từ (Giai đoạn thứ nhì):
Việc rải Tâm Từ được chia làm hai phần chính trong tinh thần Kinh Tâm Từ:
Phần đầu (hitasukhāgamapatthanāmettā): Cầu mong tất cả chúng sinh được sự tiến hóa, sự an lạc. Điều này được thực hiện bằng cách rải Tâm Từ đến:
Tất cả chúng sinh tổng hợp: "Nguyện tất cả chúng sinh, được hạnh phúc an bình, Nguyện cho tâm chúng sinh, được vui lòng như ý." (Kinh Tâm Từ, bản dịch Lê Kim Kha) hoặc "Sukhino vā khemino hontu. Sabbe sattā bhavantu sukhitattā". (Tk Hộ Pháp)
Chúng sinh theo nhóm hai (yếu/mạnh, thấy được/không thấy được, ở xa/ở gần, đã sinh/sắp sinh).
Chúng sinh theo nhóm ba (dài/ngắn/trung bình, to/nhỏ/trung bình, mập/ốm/trung bình).
Trích dẫn: "Ye keci pāṇa-bhūtatthi tasā vā thāvarā vā anavasesā, Dīghā vā yeva mahantā vā majjhimā rassakāṇukathūlā, Diṭṭhā vā ye va adiṭṭhā ye ca dūre vasanti avidūre, Bhūtā vā sambhavesī vā Sabbe sattā bhavantu sukhitattā." (DLPP - Bai 09 - Kinh Tam Tu) - "Với muôn loài chúng sanh, Không phân phàm hay thánh, Lớn nhỏ hoặc trung bình, Thấp cao hay dài ngắn Tế thô không đồng đẳng, Hữu hình hoặc vô hình, Đã sanh hoặc chưa sanh, Gần xa không kể xiết, Nguyện tất cả sanh linh, Tràn đầy muôn hạnh phúc."
Phần hai (ahitadukkhānagamapatthanāmettā): Cầu mong chúng sinh không có sự thoái hóa, không bị khổ não. Điều này liên quan đến việc không làm hại, lừa dối, khinh thường hay mong điều bất hạnh cho người khác.
Trích dẫn: "Na paro paraṃ nikubbetha nātimaññetha katthaci naṃ kiñci, Byārosanā paṭīgha-saññā nāñña-maññassa dukkha-miccheyya." (DLPP - Bai 09 - Kinh Tam Tu) - "Ðừng làm hại lẫn nhau, Chớ khinh rẻ người nào, Ở bất cứ nơi đâu, Ðừng vì niệm sân si, Hoặc hiềm hận trong lòng, Mà mong người đau khổ."
Việc rải Tâm Từ cần được thực hiện với "tâm từ vô lượng vô biên rải khắp mọi chúng sanh" (DLPP - Bai 09 - Kinh Tam Tu), "trên dưới và quanh mình, Không hẹp hòi oan trái, Không hờn giận căm thù." (DLPP - Bai 09 - Kinh Tam Tu).
"Hãy mở rộng tình thương, Hy sinh như từ mẫu, Suốt đời lo che chở, Ðứa con một của mình, Hãy phát tâm vô lượng, Ðến tất cả sanh linh." (DLPP - Bai 09 - Kinh Tam Tu)
Sự Khác Biệt giữa Tâm Từ và Tình Thương Khác:
Tk Hộ Pháp phân biệt ba loại tình thương: tình thương với tâm tham ái (có giới hạn, dễ sinh khổ), tình thương trong gia đình (cũng có giới hạn, có thể bị ô nhiễm bởi phiền não), và tình thương với tâm từ (vô hạn, trong sạch, không bị biến đổi theo đối tượng). Chỉ có tình thương với tâm từ mới là "tâm sở vô sân đồng sanh với thiện tâm."
Thể Hiện Tâm Từ trong Cuộc Sống:
Tâm Từ cần được thể hiện qua ba môn: thân hành thiện (Kāyakammamettā), khẩu nói điều thiện (Vacīkammamettā), và ý nghĩ thiện tâm (Manokammamettā). Điều này bao gồm việc giúp đỡ lẫn nhau, nói lời chân thật, đàm luận chánh pháp, và luôn cầu mong sự an lạc cho tất cả chúng sinh.
Những Lợi Ích của Tâm Từ (AN 11.15):
Ngủ an vui, thức dậy an vui.
Không chiêm bao mộng mị xấu.
Được mọi người yêu quý.
Được chư thiên hộ trì.
Không bị lửa, thuốc độc, khí giới làm hại (trừ nghiệp báo cũ).
Tâm dễ định.
Gương mặt tươi sáng.
Chết an vui.
Tái sinh vào cảnh giới nhàn lạc (nếu đắc thiền thì tái sinh vào cõi Phạm thiên).
Tâm Từ và Pháp Hành Giải Thoát:
Tâm Từ là một đề mục thiền định (Samatha) có khả năng đưa hành giả chứng đắc các bậc thiền sắc giới từ Đệ nhất đến Đệ Tứ. Tuy nhiên, nó không thể đưa đến Đệ Ngũ thiền do luôn cần chi thiền lạc.
Đối tượng của thiền Tâm Từ là chúng sinh (chế định pháp), do đó không thể trực tiếp chứng đắc Thánh Đạo, Thánh Quả và Niết Bàn.
Để đạt được giải thoát, hành giả sau khi chứng đắc thiền Tâm Từ cần chuyển sang thực hành thiền tuệ (Vipassanā), lấy tâm thiền hoặc chi thiền của thiền sắc giới làm đối tượng quán xét danh pháp và sắc pháp với ba đặc tính vô thường, khổ, vô ngã.
Thực hành thiền tuệ dựa trên nền tảng của giới hạnh và trí tuệ giúp diệt trừ phiền não, từng bước chứng đắc các Thánh Quả (Nhập Lưu, Nhất Lai, Bất Lai, A-ra-hán).
"Ai từ bỏ kiến chấp, Khéo nghiêm trì giới hạnh, Thành tựu được chánh trí, Không ái nhiễm dục trần, Không còn thai sanh nữa" (DLPP - Bai 09 - Kinh Tam Tu) - Câu này trong Kinh Tâm Từ mô tả kết quả của việc thực hành toàn diện, bao gồm giữ giới, phát triển tuệ quán (thành tựu được chánh trí, từ bỏ kiến chấp) và diệt trừ tham ái (không ái nhiễm dục trần), dẫn đến sự giải thoát hoàn toàn (không còn thai sanh nữa).
Kết Luận Chính:
Kinh Tâm Từ (Metta Sutta) và các bài giảng giải thích rõ ràng rằng Tâm Từ không chỉ là một cảm xúc yêu thương thông thường, mà là một phẩm chất tâm linh cao thượng cần được phát triển có phương pháp. Việc thực hành rải Tâm Từ, kết hợp với việc trau dồi các phẩm chất đạo đức và tu tập thiền định/thiền tuệ, mang lại vô số lợi ích cho bản thân và tất cả chúng sinh, đồng thời là một con đường quan trọng dẫn đến sự giải thoát khỏi khổ đau trong luân hồi. Việc học và thực hành Tâm Từ có sức mạnh chuyển hóa môi trường xung quanh, từ việc làm cho chư thiên hoan hỉ hộ trì đến việc nuôi dưỡng một thế giới hòa bình và an lạc.