Tóm Tắt Chú Giải Kinh Căn Bản Pháp Môn - Bài số 1 Kinh Trung Bộ
Bản Tóm Tắt Chú Giải Kinh Căn Bản Pháp Môn (Mūlapariyāya Sutta)
1. Tổng Quan về Kinh Căn Bản Pháp Môn (Mūlapariyāya Sutta)
Vị trí và tầm quan trọng: Kinh Căn Bản Pháp Môn (Mūlapariyāya Sutta) là bài kinh đầu tiên trong Trung Bộ Kinh (Majjhimanikāya) và được coi là bài kinh nền tảng nhất trong các bài pháp của Đức Phật trong kinh điển Pāli. Cùng với Kinh Phạm Võng (Brahmajāla Sutta) trong Trường Bộ Kinh (Dīghanikāya), nó đóng vai trò quan trọng trong việc khai mở chánh trí và giúp phân biệt tà đạo và chánh đạo.
Mục đích chính: Kinh này nhằm mục đích "phơi bày toàn thể khối quan niệm sai lạc chủ quan, từ những nhánh xuống tới những gốc của chúng". Nó không chỉ giải quyết những ý tưởng sai lầm phát sinh từ suy đoán, mà còn cả những ý tưởng sai lầm khởi lên từ kiêu mạn, ái và các phiền não khác. Kinh này vạch ra mắc xích nhân duyên trói buộc con người trong các ách phược phàm tục và trí tuệ cần thiết để giải thoát.
2. Sự Hiểu Biết Sai Lầm của Phàm Phu
Bản chất của sự hiểu biết sai lầm: Sự hiểu biết đúng đắn chỉ có thể phát sinh khi những khuynh hướng hiểu sai được loại bỏ. Phàm phu (assutavā puthujjano), người không quan tâm đến các bậc thánh và chân nhân, thiếu sự hiểu biết và kỷ luật để xua tan hoạt động của ngã thức.
Quá trình nhận thức của phàm phu: Quá trình nhận thức của phàm phu được mô tả qua nhiều giai đoạn, bắt đầu bằng "tưởng tri" đối tượng.
Giai đoạn Tưởng Tri (Sañjānāti): Phàm phu "tưởng tri đất là đất". Sự "tưởng tri" này không phải là sự nắm bắt đối tượng đúng như thực tính, mà là "tưởng lầm lạc" (viparītasaññā), mở đầu cho sự méo mó. Do "phi như lý tác ý" (ayoniso manasikāra) với các ngoại trần, các phiền não phát sinh do duyên tưởng.
Trích dẫn: "Vị ấy tưởng tri đất là đất,'(xin dùng đất làm khuôn mẫu cho các cơ sở còn lại ). Sự ‘tưởng tri’ đề cập ở đây không phải là một tưởng mà nắm lấy đối tượng trong thực tính, y theo chân tướng; đúng hơn, như chú giải phát biểu, nó là một ‘tưởng lầm lạc’ (viparītasaññā) và mở đầu cho sự méo mó sơ khởi trong luận cứ của nó."
Trích dẫn: "Căn bản nhất trong ba điên đảo là tưởng điên đảo, chính tưởng này mà Đức Phật ám chỉ trong lời phát biểu rằng phàm phu ‘tưởng tri đất là đất.’ Do phi như lý tác ý (ayoniso manasikāra) với các ngoại trần, các phiền não do duyên tưởng phát sanh."
Giai đoạn Tưởng Tượng (Maññanā): Sau khi tưởng tri, phàm phu tiếp tục "tưởng tượng" đối tượng. Tưởng tượng (maññanā) là một loại suy nghĩ sai biệt, luôn luôn bao gồm sự nắm bắt sai lạc về đối tượng. Nó gán cho đối tượng những thuộc tính hoặc mối quan hệ không dựa trên bản thân pháp đó mà dựa trên cấu trúc hoạt động của tưởng tượng chủ quan.
Trích dẫn: "Sau khi tưởng tri ‘đất là đất’, trong giai đoạn nhận thức kế tiếp kẻ phàm phu tiếp tục ‘tưởng tượng’ đối tượng của mình... Từ Pāli mà chúng tôi đã chuyển dịch là ‘sự tưởng tượng,’ maññanā... biểu thị một loại suy nghĩ sai biệt và phát triển hơn, dứt khoát nó là bất thiện và luôn luôn bao gồm sự nắm lấy sai lạc về đối tượng."
Bốn cách tưởng tượng: Phàm phu có thể tưởng tượng đối tượng theo bốn cách: "tưởng tượng đất; tưởng tượng trong đất; tưởng tượng từ đất; tưởng tượng ‘đất là của ta.’" Điều này được giải thích là sự ràng buộc của phàm phu với cấu trúc ngữ pháp của ngôn ngữ và những định kiến ngã chấp.
Trích dẫn: "Vị ấy tưởng tượng đất; vị ấy tưởng tượng trong đất; vị ấy tưởng tượng từ đất; vị ấy tưởng tượng ‘đất là của ta.’ Những cụm từ khó hiểu này tự nhiên phát khởi vấn đề về nội dung chính xác. Đại đức Ñāṇananda gợi ý rằng bốn sự phối hợp nên được hiểu như ‘một minh họa về sự ràng buộc của phàm phu đối với cấu trúc ngữ pháp của ngôn ngữ,’..."
Nguồn gốc của tưởng tượng sai lầm: Ý tưởng "Ta là" (asmimāna và asmichanda) phát sinh như kiêu mạn và ham muốn là nguồn gốc ban sơ của nhận thức sai lạc. Sự đồng hóa cái ngã tưởng tượng với các thành phần danh sắc dẫn đến "thân kiến" (sakkāyadiṭṭhi).
Trích dẫn: "Đoạn văn này làm cho rõ ràng ý nghĩa ban sơ khiến cho phát khởi nhận thức sai lạc là ý tưởng ‘Ta là’, nó phát sanh như là một kiêu mạn (asmimāna) bắt nguồn từ sự đánh giá hoặc ước lượng lầm lẫn về sự kiện khách quan, và như là sự ham muốn (asmichanda) biểu lộ một thôi thúc căn bản để sinh thành."
Đối tượng của tưởng tượng sai lầm: Phàm phu tưởng tượng về 24 cơ sở khác nhau, bao gồm bốn nguyên tố (đất, nước, lửa, gió), chúng sanh, chư thiên, sanh chủ, và các đối tượng nhận thức (sở kiến, sở văn, sở đối xúc, sở tri), đồng nhất, sai biệt, và tất cả. Những tưởng tượng này thể hiện những cố gắng của phàm phu để đặt bản thân trong tương quan với thế giới và chúng sanh khác, thường dựa trên định kiến ngã chấp và các quan điểm sai lầm đương thời (như Thường luận, Đoạn luận, chủ nghĩa duy vật, duy linh, hoặc các tín ngưỡng về Đấng sáng tạo).
Trích dẫn: "Những tưởng tượng của phàm phu về bốn nguyên tố... có thể bị nắm lấy để thể hiện những cố gắng của vị ấy muốn đặt bản thân trong tương quan với thế giới vật chất... Những tưởng tượng về các cơ sở từ ‘chúng sanh’ lên đến tận ‘phi tưởng phi phi tưởng xứ’ biểu lộ những cách giải thích mối liên hệ của phàm phu với những chúng sanh khác."
Trích dẫn: "Có những trường phái chấp nhận mọi chủ thuyết đương thời, như phái của Giáo chủ Sañjaya Belatthiputta... “Chấp nhận tất cả” là chấp nhận một quan điểm theo đương thời. Chủ thuyết ấy có thể là đúng hoặc không đúng. Nhưng ở đây ám chỉ “chấp nhận một quan điểm không đúng, quan điểm này do tưởng cùng với niềm tin tạo thành."
Sự khác biệt giữa vô tưởng và phi tưởng: "Vô tưởng" là hoàn toàn không có tưởng, trong khi "phi tưởng" là tưởng cực kỳ vi tế, dường như có nhưng không rõ ràng, không làm tròn chức năng. Điều này liên quan đến các tầng thiền vô sắc.
Trích dẫn: "Khi gọi là “vô tưởng” là khẳng định dứt khoát kgông có tưởng. Gọi là “phi tưởng” không phải là không có tưởng mà vì tính cách an tịnh của tầng thiền này, tức là dường như có dường như không”, mọi ý nghĩ (tưởng) dường như không thể hiện rõ."
3. Con Đường Tu Tập để Giải Thoát
Vai trò của bậc Hữu Học (Sekha): Trái ngược với phàm phu, bậc hữu học "thắng tri đất là đất" (abhiññā). Abhiññā ở đây ngụ ý sự hiểu rõ các pháp qua tướng, duyên và ba tướng (vô thường, khổ, vô ngã). Bậc hữu học thấy rõ đối tượng trong thực tính không bị bóp méo, hiểu nó là tập hợp của các yếu tố vô thường, do duyên sinh.
Trích dẫn: "Tương phản với phàm phu mà ‘tưởng tri đất là đất,’v.v… vị hữu học được nói ‘ thắng tri đất là đất'(abhiññā), theo chú giải, ngụ ý hai loại hiểu rõ bậc thấp, ít nhất một phần nào đó- tức là, sự lãnh hội các pháp qua các tướng và các duyên đặc biệt, sự quan sát chúng qua ba tướng."
Khắc phục tưởng tượng sai lầm: Đức Phật hướng dẫn bậc hữu học khắc phục tưởng tượng bằng cách quán xét các uẩn: "Đây không phải của ta, đây không phải là ta, đây không phải là ngã của ta" (n’etaṃ, mama, n’eso’haṃ asmi, na m’eso attā). Quán xét này giúp giảm nhẹ ái, mạn và củng cố sự giải thoát kiến giải về ngã.
Trích dẫn: "Đến đây Đức Phật huấn thị cho vị hữu học khắc phục tưởng tượng để mà vị ấy có thể thành tựu sự hiểu rõ các cơ sở... Ứng dụng thắng trí đối với các uẩn, vị ấy quán xét chúng như vầy: ‘Đây không phải của ta, đây không phải là ta, đây không phải là ngã của ta’ (n’etaṃ, mama, n’eso’haṃ asmi, na m’eso attā)."
Từ bỏ và chế ngự: Con đường giải thoát đòi hỏi sự từ bỏ và chế ngự các bất thiện pháp.
Luật thu thúc (Saṃvara Vinaya): Có năm chi phần: thu thúc giới (như giới Bát Quan Trai), thu thúc niệm (chế ngự tâm bằng sự ghi nhận), thu thúc trí (quán xét đúng đắn khi thọ dụng vật dụng), thu thúc nhẫn (chịu đựng khổ), và thu thúc tấn (ngăn các bất thiện pháp chưa sinh, diệt các bất thiện pháp đã sinh).
Trích dẫn: "Toàn thể năm chi ‘thu thúc’ này được gọi là ‘thu thúc’ (saṃvara) và luật (vinaya) bởi vì nó thu thúc và khép vào kỷ luật một cách tương ứng bất cứ tà hạnh nào về thân, (khẩu và ý). Như vậy luật thu thúc được phân loại thành năm chi phần."
Luật từ bỏ (Pahāna Vinaya): Có năm chi phần: từ bỏ nhờ yếu tố thay thế (thay thế bất thiện bằng quán trí đối nghịch), từ bỏ nhờ chế ngự (chứng thiền, tạm thời ngăn phiền não), từ bỏ nhờ đoạn trừ (diệt tận phiền não qua Thánh đạo), từ bỏ nhờ an tịnh hoàn toàn (quả vị), và từ bỏ nhờ giải thoát (Niết Bàn).
Trích dẫn: "Luật từ bỏ cũng có năm chi phần là sự từ bỏ nhờ yếu tố thay thế (tadaṅgapahāna), sự từ bỏ nhờ chế ngự(vikkhambhanapahāna), sự từ bỏ nhờ đoạn trừ (samucchedapahāna), sự từ bỏ nhờ an tịnh hoàn toàn (paṭipassaddhipahāna) và sự từ bỏ nhờ giải thoát (nissaranapahāna)."
Phân biệt Tưởng Tri, Thức Tri và Tuệ Tri:Tưởng Tri (Sañjānāti): Nhận biết đối tượng dựa trên chế định và dấu hiệu từng gặp, có thể dẫn đến sai lầm khi "đi quá xa".
Trích dẫn: "Tưởng tri ví như nhìn thấy sợi dây leo trong rừng cho là con rắn... nó chỉ hư ngụy khi “đi quá xa”, tức là khi để cho tưởng tự do phát huy sức mạnh, khi ấy tưởng sẽ tạo ra những sai biệt qua sự nhớ lại những dấu hiệu (nimitta) từng gặp rồi dẫn đến lầm lạc."
Thức Tri (Vijānāti): Nhận biết cao hơn tưởng, nhận biết đặc tính vô thường, khổ của đối tượng nhưng chưa thể nhập vào các đặc tướng ấy.
Trích dẫn: "Thức tri (vijānāti) là gì?... Là sự nhận biết đối tượng đồng thời biết cả đặc tính vô thường, khổ của đối tượng, nhưng chưa thể nhập vào các đặc tướng ấy được."
Tuệ Tri (Pajānāti): Sự biết của trí, hiểu rõ đối tượng và có khả năng làm hiển lộ Thánh đạo bằng cách trừ diệt vô minh.
Trích dẫn: "Tuệ tri (pajānāti) là gì?... Là sự biết của trí, trí hiểu rõ đối tượng như thức đồng thời có khả năng làm hiển lộ Thánh Đạo khi tăng trưởng đủ sức mạnh. Vì sao? Vì trí là pháp đối nghịch của vô minh, trí có công năng xóa vô minh."
Vai trò của Bát Thánh Đạo: Để thoát khỏi các ách phược (dục ách, hữu ách, kiến ách, vô minh ách), cần tu tập Bát Thánh Đạo.
Trích dẫn: "Chính vì mục đích muốn thắng tri, muốn liễu tri, muốn đoạn diệt, muốn đoạn tận bốn áh phược này, này các Tỷ kheo, Thánh đạo tám ngành cần phải tu tập.”
Chi pháp của ách phược: Dục ách và hữu ách là tâm sở tham (lobhacetasika), kiến ách là tâm sở tà kiến (diṭṭhicetasika), vô minh ách là tâm sở si (mohacetasika).
Trí tuệ của Thánh Hữu Học: Vị hữu học thoát ra khỏi kiến ách nhưng vẫn bị trói buộc bởi các kiết sử khác. Nhờ trí văn, trí tư và tu tập Minh sát, vị ấy suy quán qua tưởng vô thường, khổ, vô ngã để thể nhập vào Niết Bàn.
Trích dẫn: "Vị Thánh hữu học còn bị trói buộc bởi những kiết sử nên không thể nhận thức rõ ràng các thực tính pháp, vị ấy nhờ trí văn để rồi suy quán qua tưởng vô thường, tưởng khổ, tưởng vô ngã (ví như bóng ảnh) để thể nhập vào Bất tử pháp là Níp-Bàn, cho đến khi giải thoát hoàn toàn mọi ách phược (yoga)."
Sự hiểu biết về Đồng nhất và Sai biệt: Bậc Thánh Hữu Học hiểu "đồng nhất" là khi thành tựu một pháp thượng nhân, các pháp phải ngang bằng nhau. Hiểu "sai biệt" là dựa trên Pháp chứ không phải "ta" hay "đời", nhận biết sự sai biệt của các giới (như nhãn giới, sắc giới, nhãn thức giới trong sự thấy).
Trích dẫn: "Trái lại vị thánh Hữu học hiểu “đồng nhất” là: “khi thành tựu một pháp thượng nhân nào đó, thì các pháp phải đồng nhất”... Trái lại bậc Thánh Hữu Học thì lấy “Pháp (dhamma) làm chủ, vì đã chứng thực pháp tính đồng thời chứng đạt pháp."
4. Quả Vị A La Hán
Đặc tính của bậc A La Hán: Bậc A La Hán là người "các lậu đã tận, tu hành thành mãn các việc nên làm, đã đặt gánh nặng xuống, đã thành đạt lý tưởng, đã tận trừ hữu kiết sử, chánh trí giải thoát".
Trích dẫn: "“Lại nữa, này các Tỷ kheo, có vị tỷ kheo là bậc A La Hán, các lậu đã tận, tu hành thành mãn các việc nên làm, đã đặt gánh nặng xuống, đã thành đạt lý tưởng, đã tận trừ hữu kiết sử, chánh trí giải thoát”."
Khīṇāsava (Lậu tận): Bậc A La Hán đã trừ diệt hoàn toàn bốn loại lậu hoặc: dục lậu, hữu lậu, kiến lậu, và vô minh lậu.
Trích dẫn: "Gọi là bậc Lậu tận (khīṇāsava) là bậc đã trừ diệt trọc vẹn ba pháp hay bốn pháp lậu hoặc (āsava) là: dục lậu (kāmāsava), hữu lậu (bhavāsava), kiến lậu (diṭṭhāsava) và vô minh lậu (avijjāsava)."
Đã đặt gánh nặng xuống (Dhitabhāra): Gánh nặng là ngũ uẩn (khandhabhāra), ô nhiễm (kilesabhāra), và pháp hành (abhisaṅkhārabhāra). Ô nhiễm là gánh nặng lớn nhất, gốc rễ từ ái (taṅhā). Bậc A La Hán đã diệt trừ tận gốc ái tùy miên, nên không còn ô nhiễm trong tâm. Hành động của bậc A La Hán là "vô ký" (abyākatā), không còn cho quả tái sinh.
Trích dẫn: "Trong ba loại gánh nặng thì ô nhiễm (kilesa) là gánh nặng lớn nhất... Bậc Thánh A La Hán đã diệt trừ tận gốc rễ ái tùy miên, nên những “bất hạnh (dhi)” đè nặng lên ngũ uẩn, mọi áp lực của “ô nhiễm” đối với danh sắc đều bị triệt tiêu, do đó nói “đã đặt gánh nặng xuống”, tức là mọi ô nhiễm không còn trong tâm của vị ấy."
Chánh trí giải thoát (Samma-d-aññā Vimutto): Bậc A La Hán có trí tuệ thấu hiểu các nhân duyên đoạn diệt các pháp như uẩn, xứ, giới, đế, không còn nhầm lẫn. Thấy rõ các pháp hữu vi là vô thường, khổ, vô ngã và thể nhập vào các định tướng ấy trọn vẹn.
Trích dẫn: "Vị thánh A La Hán biết rõ nhân duyên đoạn diệt các pháp như uẩn, xứ, giới, đế (sacca) không còn bị nhầm lẫn nên trí tuệ ấy được gọi là chánh trí."
Sự thâm nhập chủ quan: Đối với bậc hữu học, sự thâm nhập là từng phần, loại bỏ tà kiến về ngã nhưng vẫn còn phải phấn đấu. Đối với bậc A La Hán, sự thâm nhập là hoàn toàn, diệt tất cả mức độ phiền não, giải thoát ngay cả khuynh hướng ý thức tự thân nhỏ nhặt nhất.
Trích dẫn: "Đối với bậc hữu học, sự thâm nhập chủ quan là từng phần... Nhưng đối với vị A la hán, sự thâm nhập là hoàn toàn. Vị ấy đã diệt tất cả mức độ của phiền não, do đó giải thoát ngay cả khuynh hướng ý thức tự thân nhỏ nhặt nhất."
5. Bối Cảnh và Lý Do Thuyết Giảng Kinh Căn Bản Pháp Môn
Sự kiện đặc biệt: Kinh Căn Bản Pháp Môn được thuyết giảng cho năm trăm tỳ kheo, trước kia là những người Bà La Môn thông thạo kinh Veda. Do sở học, họ phát sinh kiêu mạn, nghĩ rằng họ hiểu hết lời Đức Phật dạy.
Trích dẫn: "Kinh “Căn bản pháp môn” nằm trong loại bốn. Sự kiện đặc biệt xảy ra ở đây là gì? Sự phát sanh mạn do sở học. Vì, có lời rằng, năm trăm bà la môn là những bậc thầy về tam Phệ đà... do duyên sở học chúng phát sanh mạn. Chúng suy nghĩ, ‘Bất cứ điều gì Thế Tôn nói,’ ‘điều đó’ chúng ta hiểu chớp nhoáng."
Mục đích của Đức Phật: Đức Phật thuyết kinh này để "đập vỡ kiêu mạn" của họ, vì kiêu mạn ngăn cản họ thực chứng đạo quả. Việc họ không hiểu kinh cho thấy họ chưa thực sự hiểu giáo lý dù có kiến thức uyên bác.
Trích dẫn: "Thế Tôn hiểu tâm của chúng đang diễn ra như vậy và ý thức rằng điều đó không thể giúp chúng thực chứng đạo hoặc quả chừng nào cột trụ kiêu mạn chưa được bứng gốc khỏi tâm của chúng, ngài lấy mạn của chúng làm dịp để thuyết một kinh."
Trích dẫn: "Do không hiểu ý nghĩa bài kinh, thì làm thế nào hoan hỷ được? - Sự hoan hỷ có khởi sanh lên là hoan hỷ với trí tuệ của Đức Phật, sự hoan hỷ này nếu có là có đối với trí tuệ của Đức Phật, chứ khôngphải đối với lời giảng."
Quan niệm Bà La Môn và sự đối lập: Kinh này đụng chạm mạnh đến tín điều Bà La Môn về một cái ngã trường tồn bất diệt (Ātman) và Đấng sáng tạo (Brahman, Pajāpati), vốn là trung tâm của triết học Bà La Môn. Việc Đức Phật vạch ra những quan niệm này chỉ là "tưởng tượng của kẻ vô văn phàm phu" đã kích động họ.
Trích dẫn: "Điểm chủ yếu về tà trí của các vị rất có thể là sự tin tưởng về một cái ngã trường tồn bất diệt, Ātman, giáo điều chính của triết học bà la môn và mục tiêu quan trọng của lời diễn giải của Đức Phật trong kinh... Khi vạch ra những cách tư tưởng như chỉ là những tưởng tượng của kẻ vô văn phàm phu, Đức Phật có thể đã chạm mạnh vào tâm điểm những tín điều bà la môn còn dư xót của chư tỳ kheo này, bằng cách ấy kích động sự phẫn nộ của họ."
Kết quả: Sau khi nghe kinh, năm trăm tỳ kheo trở nên khiêm tốn, tiếp tục tu tập, lắng nghe pháp của Đức Phật, và cuối cùng đạt giải thoát.
6. Cấu trúc Giáo Pháp và Phương pháp Thuyết Giảng của Đức Phật
Các vấn đề xoay quanh Sắc, Danh-Sắc, và Danh: Dù có nhiều "vấn đề" trong thời Đức Phật, tất cả chỉ xoay quanh ba tiêu đề chính: Sắc, Danh-Sắc, và Danh. Kinh này nêu lên 24 vấn đề liên quan đến các tiêu đề này.
Trích dẫn: "Hẳn nhiên, vào thời Đức Phật có rất nhiều "vấn đề", tuy nhiên tất cả chỉ xoay quanh ba tiêu đề: Sắc, Danh-Sắc và Danh. Đức Phậtnêu lên 24 vấn đề xoay quanh ba tiêu đề ấy."
Bốn nền tảng thuyết giảng:Không thỉnh cầu, thấy phù hợp với mục đích (giải trừ nghi hoặc, tăng trưởng đức tin).
Thấy duyên lành chín muồi, căn cơ, mong cầu của người nghe, dẫn đến mục đích, đạo quả.
Kết hợp thuyết giảng có pháp làm chủ đề và cá nhân làm điều kiện.
Kết hợp thuyết giảng có cá nhân làm chủ đề và pháp làm điều kiện.
Trích dẫn: "Để trả lời câu hỏi này chúng ta cần tìm hiểu bốn nền tảng thuyết giảng Giáo Pháp của Đức Thế Tôn như sau..."
Thấy Pháp là thấy Phật: Quan trọng là thấy các bậc thánh bằng tuệ, tức là thấy các tướng vô thường, khổ, vô ngã và chứng ngộ các pháp mà các ngài đã chứng ngộ, chứ không phải chỉ thấy bằng mắt thịt hay thiên nhãn.
Trích dẫn: "Do đó không phải thấy với mắt mà có ý nghĩa trong cụm từ ‘quan tâm (đến các bậc thánh),’ nhưng thấy với tuệ. Như có lời dạy rằng: ‘Này Vakkali, mục đích của ngươi là gì khi nhìn thấy thân ô trược này? Ai thấy Pháp là thấy Phật’ (S.III.1.9.5)."
7. Các Khái Niệm Quan Trọng Khác
Tùy miên (Anusaya): Những pháp tiềm ẩn trong tâm, chỉ hiển lộ khi có duyên. Chúng không có sẵn như cặn bã mà giống như sóng nổi lên khi có gió hoặc mầm nảy ra khi gặp đất, nước.
Trích dẫn: "Về pháp ngủ ngầm (anusaya): anu là theo sau, saya là ngủ yên, nên anusaya dịch là tùy miên hay ngủ ngầm, đó là những gì tiềm ẩn trong tâm, khi có duyên thì chúng sẽ hiện khởi. Gọi là ngủ ngầm không phải những pháp này có sẵn trong tâm như chất cặn ở trong nước, nó chỉ hiển lộ ra khi gặp điều kiện thích hợp..."
Hữu (Bhava): Có hai nghĩa: nghiệp hữu (kammabhava) là nghiệp tạo ra quả tái sinh, và sanh hữu (upapattibhava) là những cảnh giới tái sinh (tam giới, 31 cõi).
Trích dẫn: "“Kammameva bhava = kammabhavo: Nghiệp để tạo ra quả, gọi là nghiệp hữu”... Hữu (bhava) ở đây chỉ cho tam giới, tức là: Dục giới, sắc giới, Vô sắc giới."
Các loại Trí tuệ của Đức Phật: Các loại trí tuệ đặc biệt chỉ có ở Đức Phật, bao gồm: trí thấu hiểu các quyền (căn cơ) của chúng sanh, trí thấu hiểu các pháp tùy miên, Song thông trí (thể hiện hai loại thần thông cùng lúc), Đại Bi trí (thấu suốt mọi khía cạnh khổ đau của thế gian), và Toàn Giác trí (thông suốt tất cả các pháp trong quá khứ, hiện tại, vị lai).
Trích dẫn: "a- Trí thấu hiểu các quyền của chúng sanh mạnh hay yếu (indriya – paropariyatti ñāṇa)... b- Trí thấu hiểu các pháp tùy miên có trong chúng sanh mạnh hay yếu (āsayānusayañāṇa)... c- Song thông trí (Yamakappātihāriyañāṇa)... d- Đại Bi trí (Mahākarunāñāṇa)... e- Toàn Giác trí (sabbaññutaññāṇa)."
Bản tóm tắt này cung cấp một cái nhìn tổng thể về các chủ đề và ý tưởng chính được trình bày trong các đoạn trích, tập trung vào sự phân biệt giữa nhận thức của phàm phu và con đường giải thoát qua sự hiểu biết đúng đắn trong Phật giáo Nguyên Thủy.