Thảo luận và tóm tắt bài Kinh Tất Cả Lậu Hoặc, bài số 2 Kinh Trung Bộ
Bản tóm tắt này dựa trên các trích đoạn từ "Kinh Trung Bộ I - Kinh Tất Cả Các Lậu Hoặc", "Kinh Tất cả các lậu hoặc - Sudhamma.Net", và "Kinh số 02 - Giải Thích Kinh Tất Cả Lậu Hoặc - Sudhamma.Net".
1. Giới thiệu về Kinh và bối cảnh:
Kinh Tất Cả Các Lậu Hoặc (Sabbāsava Sutta) được Đức Phật thuyết giảng tại Tịnh xá Kỳ Viên (Jetavana) ở thành Xá Vệ (Sāvatthi).
Thành Xá Vệ được giải thích có tên như vậy vì nơi đây có thể tìm thấy mọi thứ cần thiết: “Sabbāni atthi iti Sāvatthi” – ‘Mọi thứ được tìm thấy ở đây’ – bởi vậy mới có tên gọi ‘Sāvatthi’ (Mọi thứ được tìm thấy).
Ông Cấp Cô Độc (Anāthapiṇḍika), tên thật là Sudatta, được gọi là Anāthapiṇḍika vì ông thường xuyên bố thí vật thực cho người không nơi nương tựa. Ông đã dâng cúng Tịnh xá với chi phí rất lớn, thể hiện lòng từ bi và giới hạnh đầy đủ.
Việc tên của những nhân vật như Cấp Cô Độc xuất hiện trong Kinh là để nêu lên một "tấm gương cao quí" cho những ai đang tìm cách tôn tạo công đức.
2. Bản chất của Lậu Hoặc (Āsava):
Lậu hoặc (āsava) có nghĩa là bất cứ những gì tuôn chảy ra, rỉ ra từ các căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, tâm).
Dưới dạng hiện tượng nội giới (các trạng thái tâm), lậu hoặc tuôn chảy cho đến khi đạt đến trạng thái chuyển tánh (Gotrabhu - ngưỡng cửa Tâm Đạo Siêu Thế).
Dưới dạng hiện tượng ngoại giới (các cảnh giới sinh tồn), lậu hoặc tuôn chảy khắp vũ trụ.
"Ý muốn nói ở đây là lậu hoặc thấm rỉ cùng khắp; tức là, nó đem những trạng thái tâm này, cũng như các chiều kích thế gian bên ngoài, vào trong cung bậc của nó."
Lậu hoặc tượng trưng cho phiền não, nghiệp (kamma), và cả hình thức khổ đau, bất hạnh.
Lậu hoặc mở rộng hay kéo dài ra, làm sống mãi tiến trình khổ của vòng luân hồi.
Trong Kinh này, Đức Phật chỉ thuyết giảng về 3 lậu hoặc chính (Dục lậu, Hữu lậu, Vô minh lậu) vì chúng đối nghịch với 3 loại giải thoát (Vô nguyện giải thoát, Vô tướng giải thoát, Không tánh giải thoát). Tuy nhiên, Tà kiến lậu cũng được đề cập trong Āsavakathā.
3. Vai trò của Như Lý Tác Ý và Phi Lý Tác Ý:
Sự đoạn trừ các lậu hoặc chỉ có thể thực hiện được "cho người biết và thấy; không cho người không biết và không thấy".
"Có như lý tác ý (yoniso manasikāra) và có tác ý không như lý (ayoniso manasikāra)."
Phi lý tác ý là gốc rễ của luân hồi: "Ðối với một người có tác ý không như lý, các lậu hoặc chưa sanh sẽ khởi sanh và các lậu hoặc đã sanh càng thêm tăng trưởng".
Như lý tác ý là gốc rễ của việc thoát khỏi luân hồi: "đối với một người có như lý tác ý, các lậu hoặc chưa sanh sẽ không khởi sanh và các lậu hoặc đã sanh được trừ diệt."
Phi lý tác ý khi tăng trưởng làm cho vô minh và hữu ái đầy đủ, dẫn đến sự sanh khởi và tăng trưởng của khổ uẩn.
Người thường xuyên phi lý tác ý bị trói chặt trong tam giới, tái sanh khắp nơi, "giống như thuyền bị sức gió thổi làm cho ngã xuống, và tương tự như đàn bò bị rơi vào dòng nước xoáy, và y như con bò đực bị lòng vào cỗ xe kéo."
Như lý tác ý là nhìn mọi vật hợp theo sự thực, dựa trên sự hiểu biết về tam tướng (vô thường, khổ, vô ngã).
4. Các loại Lậu Hoặc không cần phải suy tư:
Kẻ phàm phu không biết rõ các pháp cần phải khéo suy tư, không biết rõ các pháp không cần phải suy tư. Nên cái cần khéo suy tư thì không suy tư, cái không khéo suy tư lại suy tư. Từ đó, các lậu hoặc chưa sanh thì sanh khởi, các lậu hoặc đã sanh khởi thì tăng trưởng.
Pháp không cần phải suy tư là pháp khiến cho dục lậu, hữu lậu, và vô minh lậu sanh khởi hoặc tăng trưởng.
5. Tà Kiến và những biểu hiện của nó:
Tà kiến (diṭṭhigata) là sự chấp thủ sai lầm, được đề cập đến 62 loại tà kiến.
Tà kiến được mô tả bằng nhiều hình ảnh:
Kiến trù lâm (diṭṭhi-gahana): Tà kiến như khu rừng, khó vượt qua, dễ bị lạc.
Kiến hoang vu (diṭṭhi-kantāra): Tà kiến như chốn hoang vu, nguy hiểm, đáng sợ (như nơi bị xâm chiếm bởi cướp, rắn độc, thiếu thức ăn, nước uống).
Kiến hý luận (diṭṭhi-visūka): Tà kiến là sự vặn vẹo, xung đột với chánh kiến.
Kiến tranh chấp (diṭṭhi-vipphandita): Tà kiến là sự bối rối, không thể gắn bó với một loại tà kiến nào.
Kiến kiến phược (diṭṭhi-saṃyojanaṃ): Tà kiến là sự trói buộc, cắn chặt và giữ chắc như cá sấu.
Sự hoài nghi về bản ngã trong quá khứ, hiện tại và vị lai ("Ta có mặt hay ta không có mặt?", "Ta có mặt như thế nào?", "Ta có mặt hình vóc như thế nào?", "Chúng sanh này từ đâu đến? Và rồi nó sẽ đi đâu?") là biểu hiện của phi lý tác ý dẫn đến sự sanh khởi của tà kiến.
Thường kiến (sassatadiṭṭhi) là chấp thủ vào sự tồn tại vĩnh cửu của bản ngã. Đoạn kiến (ucchedadiṭṭhi) là chấp thủ vào sự chấm dứt hoàn toàn sau khi chết.
"Tà kiến như vậy có cùng hạng người chấp thủ rằng những thứ thường hằng an trụ lúc nào, tự ngã này cũng sẽ an trụ như thế vào lúc đó."
6. Bảy Pháp môn đoạn trừ Lậu Hoặc:
Đức Phật chỉ ra bảy pháp môn (hay phương pháp) để đoạn trừ lậu hoặc, mà theo Chú giải sư Buddhaghosa, tạo thành một phương pháp hoàn chỉnh. Năm pháp môn đầu được xem là "sự tu tập hay pháp hành tiên khởi" (Pubbabhāga Patipadā), chuẩn bị tâm cho giai đoạn khó khăn hơn là Tuệ Siêu Thế.
Do Tri Kiến đoạn trừ (Dassanā pahātabbā):
Tri kiến ở đây là cái thấy của vị Tu-đà-hoàn đạo, lần đầu tiên nhìn thấy Niết-bàn.
Việc đoạn trừ lậu hoặc bằng tri kiến là sự đoạn trừ thân kiến, hoài nghi và giới cấm thủ.
Do Thu Thúc đoạn trừ (Saṃvarā pahātabbā):
Là sự kiềm chế, hạn chế, thận trọng.
Phòng hộ các căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) bằng niệm. Niệm như người gác cổng, khi có niệm thì các giác quan được bảo vệ, khi không có niệm thì dễ sanh khởi tà giới.
"Này các tỳ khưu, tất cả đều bị cháy rực. Và này các tỳ khưu, cái gì là tất cả đều bị cháy rực? Này các tỳ khưu, mắt bị cháy rực... Bị cháy rực bởi điều gì? Ta nói rằng: ‘Bị cháy rực bởi lửa tham, bởi lửa sân, bởi lửa si. Bị cháy rực bởi sanh, bởi già, bởi chết...’" Việc thu thúc giúp ngăn chặn những ngọn lửa này.
Việc phòng hộ ở đây được xem là thu thúc bằng niệm.
Do Sử Dụng đoạn trừ (Appasevanā pahātabbā):
Có sự quán chiếu đúng đắn khi sử dụng tứ vật dụng (y phục, vật thực, thuốc men, chỗ ở).
Sự hưởng thụ bốn vật dụng mà không có sự suy xét đúng đắn sẽ tạo ra nghiệp phiền não, dẫn đến tái sanh, tăng trưởng bản ngã và tà kiến.
Vị Tỷ Kheo dùng đồ khất thực cần quán xét để "có được sự không lỗi bằng cách tránh xin, nhận và ăn một cách không thích đáng, và ta sẽ sống an ổn bằng cách ăn uống điều độ”. Hoặc nghĩ: “Ta sẽ được sự không lỗi, nhờ không có mặt những lỗi lầm như chán mệt, lừ đừ, buồn ngủ...”.
Sự quán chiếu đúng đắn khi sử dụng giúp ngăn chặn dục lậu, hữu lậu, tà kiến lậu và vô minh lậu sanh khởi.
Do Kham Nhẫn đoạn trừ (Adhivāsanā pahātabbā):
Là sự chịu đựng, kiên nhẫn đối với những cảm giác khó chịu về thân và tâm.
Quán xét sự tai hại của việc không kham nhẫn.
Kham nhẫn đối với lạnh, nóng, đói, khát, sự đụng chạm của côn trùng, rắn rết, v.v.
Kham nhẫn đối với lời nói khiếm nhã, mắng chửi, công kích, phỉ báng.
Không dao động trước cơn đau, như trưởng lão padhāniya đã minh sát cơn đau bụng gió và chứng Tam quả Bất Lai.
Việc kham nhẫn giúp ngăn chặn dục lậu (mong muốn sự an lạc), hữu lậu (mong muốn sự không đau khổ trong các hữu), tà kiến lậu (chấp thủ về sự lạnh lẽo, ấm áp có cùng ta), và vô minh lậu.
Do Tránh Né đoạn trừ (Parivajjanā pahātabbā):
Có sự quán tưởng đúng đắn và tránh xa những nguy hiểm, những nơi không phù hợp, những ác hữu.
Tránh né voi dữ, ngựa dữ, gốc cây, nơi có gai góc, ao hồ bẩn, vách núi, chỗ ngồi không thích đáng (nơi khuất lấp, riêng tư), nơi không nên lui tới (nơi có phụ nữ lẳng lơ, nơi chia rẽ, v.v.).
Tránh xa ác hữu.
Việc tránh né giúp ngăn chặn dục lậu (mong muốn sự an lạc do đau khổ), hữu lậu (mong muốn sự không đau khổ trong các hữu), tà kiến lậu (chấp thủ về nguy hiểm), và vô minh lậu.
Do Trừ Diệt đoạn trừ (Vinodanā pahātabbā):
Là việc không chấp nhận, tống khứ, trừ diệt, chấm dứt những tư duy bất thiện đã sanh khởi.
Quán tưởng đúng cách về sự bất lợi của dục tư duy, sân tư duy, hại tư duy: "đây là suy nghĩ bất thiện, bị chê trách, đem lại sự đau khổ cho chính mình".
Không cho phép đối tượng đó tiếp tục sanh khởi bằng cách loại trừ, vứt bỏ chúng đi.
Áp dụng cho dục niệm, sân niệm, hại niệm, và các ác bất thiện pháp khác.
Việc trừ diệt giúp ngăn chặn dục lậu (chính là suy tầm về dục), hữu lậu (lậu hoặc xa la đi ra từ suy tầm về dục), tà kiến lậu (tương ưng với hữu lậu), và vô minh lậu (không biết trong tất cả suy tầm).
Đây được xem là thu thúc bằng tinh tấn (vīriyasaṃvara) và đi cùng với quán xét tội lỗi trong suy tầm.
Do Tu Tập đoạn trừ (Bhāvanā pahātabbā):
Là việc tu tập các chi phần đưa đến giác ngộ.
Có sự quán tưởng đúng đắn, tu tập Thất Giác Chi (Niệm, Trạch Pháp, Tinh Tấn, Hỷ, Khinh An, Định, Xả).
Các giác chi này được tu tập "y cứ viễn ly, ly tham, đoạn diệt, hướng đến từ bỏ".
Thất Giác Chi là pháp đối nghịch với sự lui sụt (hôn trầm) và sự phóng dật của tâm.
Trạch Pháp, Tinh Tấn, Hỷ đối trị sự lui sụt.
Khinh An, Định, Xả đối trị sự phóng dật.
Niệm làm nhiệm vụ giữ thăng bằng, "đem lại nhiều lợi ích cho tất cả các Pháp."
"Một người quá chú trọng đến việc cầu nguyện thường có khuynh hướng nghiêng về đức tin mù quáng... khi một người biết hòa nhập đức tin với tác ý chơn chánh dựa trên Trạch Pháp Giác Chi, người ấy chắc chắn sẽ tạo ra được một sự quân bình các căn (tinh thần)..."
Việc tu tập giác chi siêu thế sanh khởi do chứng đắc 3 đạo cao, giúp đoạn trừ các lậu hoặc.
Ba lậu hoặc (dục lậu, hữu lậu, vô minh lậu) sanh khởi do không được rèn luyện giác chi tương ưng với Đạo cao.
Đây được xem là thu thúc bằng tu tập (bhāvanāsaṃvara).
7. Con đường dẫn đến Giải Thoát (Vivaṭṭa):
Siêu thế (vivaṭṭa) là Chiều Kích Giải Thoát của Niết Bàn, được biểu thị bằng sự vắng mặt của sự cố chấp (abhinivesa), là "chất liệu chính" của luân hồi (vaṭṭa).
Tuệ siêu thế là những trạng thái tâm tự động bứng gốc và hủy diệt cố chấp.
Luân hồi có thể được so sánh với ao nước tù, còn dòng tâm siêu thế như dòng sông nước trong suốt, luôn quét sạch cặn bã (cố chấp).
Muốn tu tập siêu thế tuệ, hành giả phải trau dồi kỷ luật về sự tỉnh giác dựa trên Thiền Minh Sát (Vipassanā).
Tứ Thánh Đế tạo thành lãnh vực của minh sát, không phải tri thức mà là kinh nghiệm trực giác.
Để thành công trong tu tập Tuệ Siêu Thế, tâm cần được định hướng thích hợp thông qua các nguyên tắc cơ bản của Thiền Minh Sát:
Giới Thanh Tịnh (Sīlavisuddhi): Tịnh hóa tam nghiệp (thân, khẩu, ý), tạo bước đầu hướng đến sự toàn bích tâm linh.
Tâm Thanh Tịnh (Cittavisuddhi): Phát triển thiền định (Jhāna) bằng cách đoạn trừ năm triền cái (chướng ngại tâm linh), dẫn đến cảnh giới cao quí của Phạm Thiên Sắc giới.
Sự phát triển định tâm đi từ chuẩn bị tướng, sơ tướng (uggahānimitta), đến tợ tướng (patibhāganimitta). Tợ tướng là sự phản ánh của trạng thái tâm tinh khiết, dẫn vào cận định sắc giới.
Thiền Định (Samadhi) dẫn đến an chỉ định và thần thông. Thiền Minh sát (Vipassanā) dẫn đến Tuệ Siêu Thế.
Minh sát là trực kiến, biết theo kinh nghiệm trực tiếp, khác với tri kiến gián tiếp.
Nhìn qua trí tuệ trực giác, con người là danh và sắc (nāmarūpa), năm uẩn (khandha): sắc, thọ, tưởng, hành, thức.
Năm uẩn này phải được thấy là vô thường (anicca), khổ (dukkha), và vô ngã (anatta) thông qua kiến tịnh (diṭṭhi vissuddhi).
Sự kết hợp tâm-vật lý là duyên khởi tánh, có mặt tùy thuộc vào các điều kiện (duyên) như vô minh, hữu ái, hành nghiệp, vật thực.
Hành giả xác định nhân và duyên của danh sắc, xác định phận sự và trạng thái của duyên và pháp nương vào duyên, rồi quán xét tam tướng để phát triển thiền tuệ và chứng đắc Tu-đà-hoàn đạo.
8. Lợi ích của việc đoạn trừ Lậu Hoặc:
Khi các lậu hoặc được đoạn trừ bằng tri kiến, thu thúc, sử dụng, kham nhẫn, tránh né, trừ diệt, tu tập, vị Tỳ-khưu "đã lìa bỏ tham ái, đã tẩy trừ kiết sử/sự trói buộc, có sự thấu triệt hoàn toàn đối với ngã mạn, (và) chấm dứt khổ đau.”
Đoạn trừ lậu hoặc bằng tri kiến là thấy rõ ngã mạn, đoạn trừ ở ngay sát-na ấy, giống như cứu sống người bị rắn cắn.
Việc đoạn trừ lậu hoặc bằng cách không cho chúng "ăn" làm suy yếu sức mạnh của chúng, cho phép tuệ minh sát tận diệt những cặn bã tinh thần này.
Những Tỳ-khưu đạt đến sự đoạn trừ lậu hoặc có "tâm phấn chấn, hoan hỷ hoặc là người có tâm tương ưng với hỷ và sự an vui".
Họ cung kính tín thọ, tán dương lời dạy của Đức Thế Tôn.
9. Tầm quan trọng của nỗ lực cá nhân:
Đạo Phật không dạy về sự can thiệp của tha lực mà xây dựng trên tinh thần tự tin, hy vọng, lối tiếp cận hợp lý.
Sự hòa hợp những khả năng tinh thần (Thất Giác Chi) là nền tảng cho mọi nỗ lực tinh thần, đối kháng hiệu quả các tai họa của lậu hoặc và phiền não.
Những trường hợp như Trưởng lão Lomasanaga Thera và Trưởng lão Padhāniya là minh chứng cho hiệu quả của việc thực hành những pháp môn này dưới hoàn cảnh thử thách, dẫn đến sự đạt đến trạng thái A-la-hán.
Người tìm đạo không thấy những phiền toái, khó khăn, hy sinh là quá nhiều vì hiểu rằng không làm như vậy sẽ dẫn đến khổ đau trong bốn ác đạo.
10. Suy tầm (Vitakka) và các loại không nên để buông thả:
Các loại suy tầm bất thiện, nếu buông thả tự do, sẽ trở thành thiên kiến và ám ảnh mù quáng, dẫn đến bệnh hoạn tâm lý.
Các loại suy tầm được phân tích bao gồm:
Quốc Độ Tầm (Janapada vitakka): Tư duy liên quan đến quê hương xứ sở, bắt nguồn từ kiêu hãnh, tà kiến, luyến ái.
Bất Tử Tầm (Amara vitakka): Tư duy liên quan đến chuyện không chết, bắt nguồn từ điên đảo tưởng, cuồng tín, cố chấp.
Pāraudayatā patisamyutta vitakka: Tư duy nghĩ đến sự thân ái của kẻ khác, bắt nguồn từ luyến ái tình cảm, nhục dục.
Lợi dưỡng, cung kính, danh xưng tương ưng tầm (Lābha sakkāra silokaputisamyutta vitakka): Tư duy nghĩ đến lợi lộc, danh dự, tiếng tăm, bắt nguồn từ tham lam, si mê, ngã mạn.
Bất khinh tiện tương ưng tầm (Anavañatti paṭi samyutta vitakka): Tư duy nghĩ đến việc không bị khinh miệt, được trội hơn, bắt nguồn từ mặc cảm tự ti, tự tôn, si mê, cố chấp, ích kỷ.
11. Lời cuối và Khuyến cáo:
Bài Kinh sâu sắc này được sưu tầm và biên tập với sự nỗ lực, nhưng vẫn có thể có sơ suất. Kính mong các bậc thiện trí góp ý chân tình.
Để học Dhamma và phương pháp thiền một cách bài bản, nên tìm hiểu và đăng ký tham dự các chương trình đào tạo, khóa thiền tại các trung tâm, tu viện uy tín dưới sự chỉ dẫn của các vị Thầy uy tín.